Ngân hàng Thế giới: Tăng trưởng GDP Việt Nam đạt khoảng 6,8% trong năm 2018, trước khi chững lại ở mức 6,6% năm 2019

Friday, 05/10/2018, 00:52 AM

Triển vọng trong trung hạn của Việt Nam tiếp tục được cải thiện. Tăng trưởng GDP dự báo sẽ đạt khoảng 6,8% trong năm 2018 (so với 6,5% trong dự báo hồi tháng 4/2018), trước khi chững lại ở mức 6,6% năm 2019 và 6,5% năm 2020 do sức cầu trên toàn cầu dự kiến chững lại theo chu kỳ.

Ngân hàng Thế giới: Tăng trưởng GDP Việt Nam đạt khoảng 6,8% trong năm 2018, trước khi chững lại ở mức 6,6% năm 2019

Sáng 4/10, Ngân hàng Thế giới (WB) đã công bố báo cáo Cập nhật kinh tế khu vực Đông Á – Thái Bình Dương.

Nhận định về kinh tế Việt Nam, WB cho rằng, nền kinh tế tiếp tục đạt kết quả tốt nhờ kinh tế toàn cầu khôi phục bền vững và những cải cách trong nước đang được thực hiện. Tăng trưởng cao dẫn đến tạo việc làm, tăng thu nhập, đem lại những thành quả chung về phúc lợi và giảm nghèo.

Triển vọng trong trung hạn, tăng trưởng GDP dự báo sẽ đạt khoảng 6,8% trong năm 2018 (so với 6,5% trong dự báo hồi tháng 4/2018), trước khi chững lại ở mức 6,6% năm 2019 và 6,5% năm 2020 do sức cầu trên toàn cầu dự kiến chững lại theo chu kỳ. Dù vậy, mức tang trưởng của Việt Nam cao hơn trung bình khu vực khu vực Đông Á và Thái Bình Dương (dự kiến đạt 6,3% trong năm 2018) do tăng trưởng của kinh tế Trung Quốc tiếp tục chững lại vì nền kinh tế tiếp tục tái cân bằng.

Trong năm 2018, lạm phát của Việt Nam vẫn xoay quanh chỉ tiêu 4% của Chính phủ, với điều kiện chính sách tiền tệ được thắt chặt phần nào nhằm đối phó với áp lực giá phát sinh do áp lực về giá đầu vào trong nước và tăng giá thương phẩm trên toàn cầu.

Về kinh tế đối ngoại, cân đối tài khoản vãng lai ước tính sẽ tiếp tục thặng dư trong ngắn hạn, nhưng mức độ thặng dư sẽ giảm dần từ năm 2019 do thâm hụt tăng lên ở tài khoản thu nhập và dịch vụ. Tình hình ngân sách được củng cố dự kiến sẽ kiềm chế được nợ công trong kỳ dự báo.

Bên cạnh đó, cũng còn những rủi ro trong, ngoài nước và những thách thức dài hạn. Trong nước, tiến trình tái cơ cấu khu vực ngân hàng và doanh nghiệp nhà nước chậm lại có thể tác động bất lợi đến tình hình tài chính vĩ mô, làm suy giảm triển vọng tăng trưởng và tạo ra nghĩa vụ lớn cho khu vực nhà nước. Những rủi ro bên ngoài bao gồm chủ nghĩa bảo hộ leo thang, bất định địa chính trị trong khu vực và trên toàn cầu tăng lên, các điều kiện huy động vốn trên toàn cầu tiếp tục được thắt chặt có thể dẫn đến những biến động gây xáo trộn trên thị trường tài chính.

 Ngân hàng Thế giới: Tăng trưởng GDP Việt Nam đạt khoảng 6,8% trong năm 2018, trước khi chững lại ở mức 6,6% năm 2019 - Ảnh 1.

WB khuyến nghị các nhà hoạch định chính sách tận dụng môi trường kinh tế thuận lợi đẩy mạnh những chính sách làm tăng khả năng chống chịu về kinh tế vĩ mô và tạo nền tảng cho tăng trưởng bền vững trong tương lai. Chính sách tiền tệ cần điều chỉnh lượng thanh khoản trong khu vực ngân hàng sao cho lãi suất liên ngân hàng gắn với lãi suất chính sách và đưa tăng trưởng tín dụng về mức phù hợp với các yếu tố căn bản.

“Chủ nghĩa bảo hộ và biến động trên thị trường tài chính có thể gây tổn hại đến viễn cảnh tăng trưởng trong trung hạn, trong đó người nghèo và những người dễ tổn thương nhất phải chịu những hệ quả bất lợi nhất. Đây là lúc các nhà hoạch định chính sách trong khu vực phải cảnh giác và chủ động tăng cường khả năng chống chịu và đương đầu của quốc gia” – bà Victoria Kwakwa, Phó chủ tịch Ngân hàng Thế giới phụ trách Đông Á và Thái Bình Dương.

Nỗ lực trên có thể được bổ trợ bằng các biện pháp cẩn trọng vĩ mô nhằm ngăn ngừa tình trạng dành tín dụng quá mức cho các lĩnh vực rủi ro cao như bất động sản hoặc tiêu dùng cá nhân. Hơn nữa, các bước nhằm tăng cường giám sát khu vực ngân hàng, xử lý nợ xấu, củng cố tỷ lệ an toàn vốn sẽ không chỉ giảm rủi ro về ổn định tài chính mà còn đem lại những cải thiện về trung gian tài chính, góp phần nâng cao tăng trưởng trong trung hạn. Tỷ giá hối đoái nếu được quản lý chủ động và linh hoạt hơn có thể giúp giảm thiểu rủi ro những biến động kinh tế từ bên ngoài.

Về chính sách tài khóa, mục tiêu tiếp tục giảm bội chi đòi hỏi phải có một chiến lược tổng thể nhằm nâng cao hiệu suất chi tiêu và duy trì bền vững tiềm năng thu trong trung hạn. Bên cạnh chính sách kinh tế vĩ mô cẩn trọng, là nhu cầu tiếp tục chú trọng cải cách cơ cấu sâu rộng, bao gồm cả những cải cách pháp quy nhằm xóa bỏ rào cản và giảm chi phí hoạt động của khu vực tư nhân, đầu tư cho nguồn nhân lực và hạ tầng chất lượng cao, tiếp tục cải cách nhằm nâng cao năng suất trong khu vực doanh nghiệp nhà nước.

Do một số địa phương vừa phải hứng chịu thiên tai trong thời gian qua nên đầu tư các biện pháp giảm thiểu biến đổi khí hậu vẫn là ưu tiên. Việc này nhằm phòng ngừa tình trạng dễ tổn thương cho các hộ gia đình ở Việt Nam trước các cú sốc thiên tai.

Theo Trithuctre

Rate this post

Leave your comment

Leave a Reply

Your email address will not be published. Required fields are marked *

Tin cùng chuyên mục

Có thể bạn quan tâm