Nhân loại đang đối mặt với một cuộc khủng hoảng toàn cầu, có lẽ là cuộc khủng hoảng lớn nhất với thế hệ chúng ta. Những quyết định được các chính phủ và người dân đưa ra trong vài tuần kế tiếp sẽ định hình lại thế giới trong những năm tới.
Yuval Noah Harari là một nhà sử học, triết học người Israel và là giáo sư Khoa Lịch sử tại Đại học Hebrew Jerusalem. Ông là tác giả của các cuốn sách bán chạy thế giới Sapiens: Lược sử loài người, Homo Deus: Lược sử tương lai và 21 bài học cho thế kỷ 21. Các tác phẩm của ông đã bán được hơn 23 triệu bản trên toàn thế giới. Ông cũng là một cây bút nổi tiếng của nhiều tờ báo lớn như The New York Times, Financial Times, The Guardians với các bài viết xoay quanh ý chí tự do, ý thức, lịch sử, văn minh.
Nhân loại đang đối mặt với một cuộc khủng hoảng toàn cầu, có lẽ là cuộc khủng hoảng lớn nhất với thế hệ chúng ta. Những quyết định được các chính phủ và người dân đưa ra trong vài tuần kế tiếp sẽ định hình lại thế giới trong những năm tới. Nó không chỉ định hình lại hệ thống y tế của nhiều quốc gia mà cả nền kinh tế, chính trị và văn hóa. Chúng ta phải hành động nhanh chóng và quyết liệt. Chúng ta phải xem xét những hậu quả về lâu dài trong từng hành động. Khi cân nhắc giữa nhiều lựa chọn, chúng ta không chỉ tính tới cách thức để bước qua biến cố của hiện tại mà cả thế giới của chúng ta sau này sẽ ra sao khi cơn bão đi qua. Mọi biến cố rồi sẽ trôi dạt về quá khứ, số đông loài người vẫn sẽ tồn tại – nhưng trong một thế giới khác so với bây giờ.
Nhiều biện pháp khẩn cấp ngắn hạn bất di bất dịch bắt buộc sẽ được triển khai. Nó đẩy nhanh tiến trình lịch sử thế giới. Những quyết định mà bình thường sẽ mất nhiều năm ròng bàn bạc giờ được thông qua chỉ sau vài giờ. Hệ thống công nghệ còn non trẻ và có phần nguy hiểm được đưa vào hoạt động, bởi vì việc không làm gì còn trầm trọng hơn. Toàn bộ các quốc gia giờ như những chú chuột lang trong một thử nghiệm xã hội quy mô lớn. Điều gì sẽ xảy ra khi mọi người đều làm việc ở nhà và chỉ giao tiếp từ xa? Điều gì xảy ra khi toàn bộ các trường học đều dạy trực tuyến? Vào thời bình, các chính phủ, doanh nghiệp và bộ ban ngành giáo dục sẽ không bao giờ thực hiện những điều này. Nhưng bây giờ, thế giới không bình yên đến vậy.
Trong tình cảnh khủng hoảng, chúng ta phải đối mặt với 2 lựa chọn quan trọng: Cuộc đối trọng giữa việc giám sát toàn trị và sự trao quyền cho công dân; lựa chọn giữa cách ly dân tộc và đoàn kết toàn cầu.
Sự giám sát gắt gao
Để chấm dứt dịch bệnh, toàn thể công dân cần tuân theo những chỉ dẫn cụ thể. Có hai cách để đạt được điều đó: Cho phép chính phủ kiểm soát người dân và xử phạt những người vi phạm. Lần đầu tiên trong lịch sử nhân loại, công nghệ đã giúp kiểm soát người dân mọi lúc mọi nơi. 50 năm trước, KGB (Ủy ban an ninh quốc gia Nga) không thể theo dõi 240 triệu người Xô Viết 24 giờ mỗi ngày, cũng như xử lý toàn bộ thông tin thu thập. KGB phải dựa vào các mật báo và chuyên gia phân tích và họ cũng không thể cử các mật vụ theo dõi từng người. Tuy nhiên, các chính phủ giờ đây có thể làm được điều đó dưới sự hỗ trợ của các thiết bị và những thuật toán siêu khủng, thay vì con người.
Trong trận chiến chống lại đại dịch Corona, nhiều chính phủ đã triển khai các công cụ theo dõi mới. Nổi tiếng nhất phải kể tới Trung Quốc. Bằng việc giám sát chặt chẽ điện thoại di động của người dân, tận dụng hàng trăm triệu camera nhận diện gương mặt và yêu cầu mọi người kiểm tra, báo cáo lại tình trạng sức khỏe, chính quyền Trung Quốc không chỉ nhận diện được những đối tượng có nguy cơ lây nhiễm virus mà còn theo dõi được lịch sử di chuyển, những người họ có tiếp xúc. Rất nhiều các ứng dụng điện thoại ra đời để cảnh báo công dân về nguy cơ lây bệnh của họ.
Công nghệ này không chỉ giới hạn ở Đông Á. Thủ tướng Israel Benjamin Netanyahu gần đây đã ủy quyền cho cơ quan an ninh Israel sử dụng công nghệ giám sát, vốn chỉ được dùng trong việc chống khủng bố, để theo dõi bệnh nhân mắc Corona. Khi hội đồng Quốc hội chuyên trách từ chối triển khai biện pháp này, Thủ tướng đã ban bố “mức độ khẩn cấp” và yêu cầu thực hiện.
Có thể với bạn, đây không phải điều gì mới. Trong những năm gần đây, các chính phủ và tập đoàn đã sử dụng nhiều biện pháp tinh vi hơn để theo dõi, giám sát và kiểm soát người dân. Nếu không khéo, đại dịch sẽ đánh dấu một bước quan trọng trong lịch sử hoạt động giám sát. Không chỉ bởi việc nó giúp hợp thực hóa việc sử dụng các công cụ giám sát hàng loạt mà nhiều quốc gia đã phủ quyết, các hoạt động này còn đánh dấu một sự chuyển hóa lớn từ việc giám sát ngầm sang giám sát công khai.
Trước đây, khi bạn lướt điện thoại và nhấp vào một đường dẫn nào đó, chính phủ muốn biết chính xác bạn đang tìm kiếm điều gì. Nhưng với Coronavirus, sự ưu tiên đã thay đổi. Chính phủ giờ đây muốn biết nhiệt độ ở ngón tay cũng như huyết áp của bạn.
“Chiếc bánh pudding” khẩn cấp
Một trong những vấn đề chúng ta phải đối mặt là việc không ai biết chính xác mình đang bị theo dõi như thế nào và những năm tới sẽ diễn biến ra sao. Công nghệ theo dõi đang phát triển với tốc độ rất nhanh, những điều tưởng chừng như khoa học giả tưởng của 10 năm trước trở nên hiện hữu trong thực tại. Như một thử nghiệm tâm lý, giả sử một chính phủ giả tưởng yêu cầu mọi người dân đeo một chiếc vòng sinh học để kiểm soát nhiệt độ và nhịp tim 24 giờ mỗi ngày. Kết quả được thu thập và phân tích bởi các thuật toán. Những thuật toán này sẽ biết bạn ốm từ trước khi bạn nhận ra, nó cũng sẽ biết chính xác bạn đã đi đâu, gặp ai. Việc nhiễm bệnh sẽ suy giảm, thậm chí được kiểm soát. Hệ thống như vậy có thể chặn đứng dịch bệnh chỉ trong vài ngày. Đó không phải điều tuyệt vời sao?
Dĩ nhiên, điều người ta lo ngại nằm ở tính hợp pháp của một hệ thống giám sát mới. Nếu tôi chọn xem Fox News thay vì CNN, mọi người có thể biết được quan điểm chính trị, hoặc có lẽ một phần tính cách tôi. Tuy nhiên nếu họ có thể kiểm soát nhiệt độ cơ thể, huyết áp và nhịp tim khi tôi xem một clip nào đó, họ sẽ biết điều gì khiến tôi cười, điều gì khiến tôi khóc hay thực sự tức giận.
Hãy nhớ rằng, giận dữ, vui vẻ, buồn chán hay yêu thương là những cơ chế sinh học tương tự như cúm hay ho. Công nghệ được sử dụng để xác định cơn ho của bạn cũng có thể xác định khi bạn cười. Nếu các tập đoàn và chính phủ thu thập dữ liệu sinh học với quy mô rộng, họ sẽ hiểu mọi người rõ hơn chúng ta hiểu về bản thân mình và họ không chỉ dự đoán được mà còn thao túng cảm xúc, bán cho chúng ta bất cứ thứ gì họ muốn – dù là một sản phẩm hay một chính trị gia. Kiểm soát sinh học sẽ khiến các chiến lược khai thác dữ liệu của Cambridge Analytica chỉ như một thứ lỗi thời.
Tất nhiên, bạn có thể coi việc giám sát sinh học chỉ là một biện pháp tạm thời trong tình thế khẩn cấp. Nó sẽ tạm thời không được sử dụng khi dịch bệnh qua đi. Tuy nhiên, các biện pháp tạm thời thường có xu hướng tồn tại lâu hơn, đặc biệt khi luôn có những nguy cơ tiềm ẩn đâu đó. Như tại Israel quê hương tôi là một ví dụ. Chính phủ ban bố tình trạng khẩn cấp vào năm 1948 và đã triển khai nhiều biện pháp tạm thời như kiểm soát báo chí, cưỡng chế đất đai cho tới những điều lệ đặc biệt về… làm bánh pudding. Cuộc chiến giành độc lập đã thắng lợi vẻ vang, nhưng Israel chưa bao giờ thu hồi lệnh khẩn cấp và nhiều biện pháp “tạm thời” vẫn còn hiệu lực tới bây giờ.
Kể cả khi số ca lây nhiễm Corona giảm xuống 0, nhiều chính phủ luôn “đói” thông tin sẽ lập luận rằng, họ cần giám sát sinh học bởi vì họ lo sợ một làn sóng Corona mới sẽ xuất hiện hay chủng Ebola mới sẽ tiến hóa tại châu Phi… Vấn đề quyền riêng tư cá nhân đã được đưa vào tranh luận suốt nhiều năm qua và cuộc khủng hoảng Corona có thể là giọt nước tràn ly. Bởi vì khi phải lựa chọn giữa quyền riêng tư và sức khỏe, chúng ta thông thường sẽ chọn sức khỏe.
Cảnh sát xà phòng
Trên thực tế, việc hỏi mọi người lựa chọn giữa vấn đề cá nhân và sức khỏe là cội rễ của vấn đề vì đây là hai sự lựa chọn không tương đồng. Chúng ta có thể vừa có sự riêng tư, vừa có sức khỏe. Chúng ta có thể lựa chọn bảo vệ sức khỏe cá nhân và ngăn chặn đại dịch Corona không chỉ bằng cách áp dụng chế độ kiểm soát toàn trị, mà bằng cách trao quyền cho công dân. Trong vài tuần trở lại đây, một vài nỗ lực ngăn chặn virus Corona có thể thấy rõ tại Hàn Quốc, Đài Loan và Singapore. Dù có hệ thống theo dõi phát triển, những khu vực này vẫn dựa chủ yếu vào việc kiểm tra sức khỏe hàng loạt, việc khai báo thật thà của người dân cũng như sự hợp tác của cộng đồng với đầy đủ thông tin.
Việc kiểm soát tập trung và răn đe cứng rắn không phải là cách duy nhất để khiến mọi người tuân thủ theo quy định. Khi người dân có thông tin chính xác và khi chúng ta tin tưởng chính quyền khi ban bố những số liệu có cơ sở, công dân sẽ tuân thủ theo dù không bị ai giám sát. Một cộng đồng tự giác và có nhận thức sẽ hiệu quả hơn là một cộng đồng thờ ơ và làm mọi thứ dưới sự giám sát.
Lấy ví dụ việc rửa tay với xà phòng. Đây là một trong những bước tiến vĩ đại nhất với vệ sinh cá nhân của loài người. Hành động đơn giản này đã cứu được hàng triệu người mỗi năm. Phải đến thế kỷ 19, các nhà khoa học mới nhận ra tầm quan trọng của việc rửa tay với xà phòng. Trước đó, kể cả các bác sĩ và y tá cũng không rửa tay, dù mới hoàn thành xong ca phẫu thuật. Ngày nay, hàng tỷ người rửa tay mỗi ngày, không phải vì họ sợ “cảnh sát xà phòng” mà đơn thuần họ hiểu được lý do cần rửa tay. Tôi rửa tay với xà phòng vì tôi hiểu về vi khuẩn và virus, tôi hiểu rằng chúng có thể khiến tôi mắc bệnh và xà phòng sẽ là cách để ngăn ngừa vi khuẩn/vi trùng hiệu quả.
Nhưng để đạt được điều đó, bạn cần sự tin tưởng. Người dân cần tin tưởng các nhà khoa học, chính quyền, truyền thông. Trong những năm qua, các nhà chính trị vô trách nhiệm đã làm rạn vỡ lòng tin của mọi người vào khoa học, các cơ quan có thẩm quyền và truyền thông.
Những niềm tin đã xói mòn trong suốt nhiều năm không thể gây dựng lại chỉ sau một đêm. Nhưng đây không phải thời điểm như vậy. Giữa khủng hoảng, tâm trí con người có thể thay đổi nhanh chóng. Bạn có thể cãi nhau suốt ngày với anh chị em nhưng khi rơi vào tình thế khẩn cấp, bạn chợt nhận ra mối quan hệ chặt chẽ giữa hai người. Thay vì xây dựng một đế chế giám sát, có lẽ chưa quá muộn để xây dựng lại niềm tin của người dân vào khoa học, vào các cơ quan chuyên môn và vào truyền thông. Chắc chắn, chúng ta phải tận dụng cả công nghệ nhưng hãy để công nghệ trao quyền cho công dân. Tôi rất ủng hộ việc kiểm tra thân nhiệt và huyết áp nhưng không muốn những thông tin đó được sử dụng sai mục đích. Những thông tin đó cần được sử dụng để giúp tôi đưa ra những lựa chọn chính xác hơn cho bản thân cũng như khiến các chính phủ phải có trách nhiệm với quyết định của mình.
Nếu có thể theo dõi tình trạng sức khỏe 24 giờ mỗi ngày, tôi sẽ biết được liệu mình có phải mối nguy sức khỏe cho người khác hay thói quen nào sẽ hủy hoại sức khỏe của bản thân. Và nếu tôi có thể tiếp cận với cơ sở dữ liệu uy tín về việc phát tán virus Corona, tôi có thể biết được liệu chính phủ đang nói sự thật hay họ chỉ đang lựa chọn một biện pháp chính trị phù hợp để đương đầu với dịch bệnh. Bất cứ khi nào mọi người nói về giám sát, hãy nhớ rằng công nghệ giám sát tương tự có thể được sử dụng, không chỉ bởi chính phủ để giám sát người dân, mà bởi các cá nhân giám sát chính phủ.
Đại dịch Corona là một phép thử lớn của quyền công dân. Trong những ngày tới, mỗi người chúng ta nên lựa chọn việc tin vào dữ liệu khoa học và các chuyên gia hay là những giả thuyết vô căn cứ và các nhà chính trị. Nếu thất bại trong việc đưa ra lựa chọn đúng đắn, chúng ta sẽ tự tước đi quyền tự do quý giá của bản thân.
Chúng ta cần một kế hoạch toàn cầu
Điều quan trọng thứ hai nằm ở lựa chọn giữa chủ nghĩa quốc gia hay tinh thần đoàn kết toàn cầu. Cả đại dịch và khủng hoảng kinh tế là vấn đề của thế giới. Nó chỉ có thể được giải quyết hiệu quả nếu các quốc gia cùng hợp tác.
Đầu tiên, để đánh bại virus Corona, thông tin cần được chia sẻ toàn cầu. Đó là lợi thế lớn nhất của con người trước virus. Trung Quốc có thể dạy Mỹ những bài học quý giá về virus Corona và cách để ngăn chặn. Điều mà một bác sĩ khám phá ở Milan sáng nay có thể sẽ cứu được nhiều mạng người ở Tehran vào buổi tối. Khi chính phủ Anh lưỡng lự giữa nhiều chiến lược, họ có thể nhận được lời khuyên từ Hàn Quốc. Để những điều này có thể được thực hiện, cần có niềm tin và sự hợp tác toàn cầu.
Các quốc gia cần sẵn sàng chia sẻ thông tin và tìm kiếm lời khuyên từ các quốc gia khác, cũng như tin vào dữ liệu khoa học mà họ nhận được. Chúng ta cũng cần một nỗ lực toàn cầu trong việc sản xuất và phân phát các thiết bị y tế, đặc biệt là các bộ thử virus và thiết bị hô hấp. Thay vì sản xuất trong nước và cố gắng gom hàng thật nhiều, các quốc gia cần hợp tác để thúc đẩy sản lượng, đảm bảo các mặt hàng thiết yếu được phân phối công bằng. Cũng như trong thời chiến tranh, mỗi quốc gia sẽ có thế mạnh với những sản phẩm cụ thể thì trong cuộc chiến với virus này cũng vậy, chúng ta cần “nhân đạo hóa” dây chuyền sản xuất thiết yếu. Một quốc gia giàu với ít ca nhiễm Corona có thể ủng hộ thiết bị cho các quốc gia nghèo hơn với nhiều ca nhiễm bệnh với niềm tin rằng, khi nào mình rơi vào tình thế tương tự sẽ được các quốc gia khác hỗ trợ.
Chúng ta cũng cần cân nhắc tới kế hoạch tương tự về nguồn lực con người. Các quốc gia ít chịu tác động của đại dịch có thể cử bác sĩ, y tá tới những vùng bị ảnh hưởng nghiêm trọng, vừa để giúp đỡ, vừa để có thể kinh nghiệm.
Sự hợp tác toàn cầu cũng rất quan trọng trong hoạt động kinh tế. Xét về bản chất toàn cầu của nền kinh tế và chuỗi cung ứng, nếu mỗi chính phủ chỉ chăm chăm lo cho đất nước mình, thế giới sẽ rơi vào hỗn loạn và lún sâu trong khủng hoảng. Chúng ta cần một kế hoạch hành động toàn cầu nhanh chóng.
Một điều nữa cần đạt được là sự thống nhất toàn cầu trong việc dịch chuyển. Các quốc gia cần hợp tác để tạo điều kiện cho việc kết nối cần thiết, ví dụ như các bác sĩ, các nhà khoa học, nhà báo, chính trị gia, thương nhân. Điều này có thể được thực hiện nếu có sự đồng thuận từ các quốc gia trong cách thức kiểm tra sức khỏe ngay tại nước sở tại. Nếu biết chắc rằng chỉ những du khách được kiểm tra sức khỏe cẩn thận mới được lên máy bay, các quốc gia sẽ chấp nhận dễ dàng hơn.
Đáng tiếc, tại thời điểm hiện tại, gần như các quốc gia không tìm được tiếng nói chung như vậy. Sự tê liệt cục bộ đã diễn ra trên toàn cầu. Chúng ta đã hy vọng sẽ có những cuộc họp khẩn cấp từ các lãnh đạo toàn cầu để đưa ra phương thức chung. Các nhà lãnh đạo G7 đã có cuộc họp trực tuyến vào tuần này nhưng không đưa ra được giải pháp nào đáng kể.
Trong các cuộc khủng hoảng trước đây – như khủng hoảng kinh tế 2008 hay đại dịch Ebola 2014, Mỹ đã đóng vai trò nhà lãnh đạo toàn cầu. Tuy nhiên, nước Mỹ hiện tại quan tâm tới sự phát triển của đất nước mình hơn tương lai của nhân loại.
Nếu chỗ trống của nước Mỹ không được thay thế bởi các quốc gia khác, chúng ta không chỉ gặp khó khăn trong việc ngăn ngừa đại dịch, di sản để lại của nó sẽ làm xấu đi mối quan hệ quốc tế trong tương lai. Khủng hoảng cũng là một cơ hội. Chúng ta phải hy vọng rằng, đại dịch sẽ giúp nhân loại nhận ra mối nguy hiểm tiềm tàng của một thế giới chia rẽ.
Nhân loại cần đưa ra một lựa chọn. Liệu chúng ta sẽ lao dốc theo con đường chia rẽ, hay tìm một giải pháp để thống nhất toàn cầu? Nếu chúng ta chọn chia rẽ, nó không chỉ kéo dài cuộc khủng hoảng mà còn kéo theo những thảm họa trong tương lai. Nếu chúng ta chọn đoàn kết toàn cầu, nó sẽ là một thắng lợi không chỉ trước virus Corona mà còn trước tất cả những đại dịch có thể xảy đến trong tương lai, đe dọa đến nhân loại trong thế kỷ 21.
Leave your comment